Bạn Nghĩ

Giới Học Trong Học Phật

Giới Học Trong Học Phật

Giới Học Trong Học Phật

Tỳ kheo Thích Nguyên Các

Đức Thích Ca Mâu Ni một đời độ sanh, từ sơ chuyển pháp luân nói pháp Tứ đế, Bát chánh đạo…, đến khi nhập niết bàn, giảng pháp vô số. Với mục đích duy nhất, hướng dẫn tất cả chúng sanh có duyên với Phật, lìa bỏ dục trần, ngộ nhập lý vô thường, vô ngã, khổ, không. Giáo pháp tuy vô lượng, xong có thể nói không ngoài Giới, Định, Tuệ. Tu tập Phật pháp, thẳng tiến trên đường giác ngộ, thì không thể không hành trì ba môn vô lậu học ấy. Điều này, Đức Phật đã khẳng định rất nhiều lần với chúng đệ tử, được kết tập trong các bộ kinh A-hàm (Bắc truyền) và Nikaya (Nam truyền) cũng như kinh điển đại thừa.

Để phá bỏ được hoàn toàn các phiền não, thông hiểu được lý chân thật của các pháp thì phải có trí tuệ. Mà trí tuệ giải thoát có được từ nơi tu tập tâm an định trong sáng, quán chiếu dẹp bỏ những mê mờ, rồi tự đó thấu suốt tất cả. Những ý thức lăng xăng lắng xuống hết gọi là định. Tâm vắng lặng được phải lấy giới làm phương tiện để câu thúc không cho tâm có cơ hội phóng túng. Đó là sự tương tức của các pháp (môn học), là lộ trình tu học giáo pháp của đức Như Lai. Như Kinh Lăng Nghiêm có ghi: “Nhiếp tâm làm giới, nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ. Đó gọi là tam vô lậu học”[1]. Vì thế, người học Phật cần phải khéo léo ở nơi tam vô lậu học mà hạ thủ công phu. Nơi đây, chúng ta tìm hiểu vài nội dung trong giới học, gọi là góp nhặt chút tư lương để tiến tu trên con đường giải thoát.

Vị trí của giới học

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 31 đức Phật dạy: “Giới thị nhất thiết thiện pháp thê đắng” (戒是一切善法梯橙)[2]. Thê đắng (梯橙) là công cụ để lên cao, tiến xa hơn. Lời kinh có nghĩa: giới là phương tiện, công cụ để tăng trưởng mọi pháp thiện. Nói cách khác, muốn các pháp lành trong tâm (từ bi, hỷ xả, chánh kiến, nhẫn nhục…) được nuôi dưỡng phát triển, thì phải giữ giới.

  Thiện pháp tăng trưởng, ấy là nhân, là căn bản của sự tu tập. Cùng nghĩa trên, trong kinh Hoa Nghiêm Phật dạy: “Giới thị vô thượng bồ đề bổn”,” (戒是無上菩提本)[3] có khả năng trưởng dưỡng tất cả các thiện căn. Vô thượng bồ đề có thể giải thích theo nhiều lớp nghĩa, ở đây ứng với nghĩa của ngài La Thập đã dịch trong Đại Trí Độ luận cuốn 44 là Vô thượng trí tuệ – tuệ giác siêu việt, là cái chân trí giác ngộ bản thể siêu việt một cách chính xác (Duy Ma Kinh chú của ngài Tăng Triệu). Tức là người tu hành theo đạo giác ngộ của Như Lai, muốn đạt được trí tuệ giải thoát, chấm dứt mọi sự ràng buộc của phiền não phải lấy giới làm nền tảng. Cũng vậy, các căn lành ngày càng tăng trưởng đều do giữ giới thanh tịnh mà thành tựu. Thiện căn cũng được giải thích là gốc rễ của thiện – vô tham, vô sân và vô si (thực chất là từ bi và trí tuệ). Học Phật là học cách diệt trừ tham sân si – căn bản của các pháp bất thiện, ra khỏi bể khổ luân hồi, phải bắt nguồn từ việc học giới.

Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán quyển bốn, Phật dạy: Vào biển Phật Pháp lấy đức tin làm căn bản, vượt dòng sanh tử lấy giới luật làm thuyền bè (入佛法海信為根本, 渡生死河戒為船筏)[4]. Chúng sanh còn sanh tử tức luân hồi, tức là còn si mê (vô minh), hành, thức… rồi sanh, lão tử hay ngược lại, lão tử rồi sanh, hữu, thủ, ái… vô minh, để từ đó mà sinh sự cho sự sinh? Muốn thoát ra khỏi ngược xuôi trong dòng ấy, phải đi trên thuyền giới luật. Lấy giới luật điều phục thân tâm (ý). Ý là nói chung cho tất cả những phân biệt thương ghét, buồn giận, hơn thua, phải quấy…. Chúng ta sống chạy theo những ý nghĩ (tâm) đó là chạy theo nghiệp. Để rồi chính nghiệp mang chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Vậy muốn chấm dứt nghiệp phải điều phục được chú “ý” này. Mà muốn điều phục được ý, đầu tiên phải nhờ nơi giới học. Nếu không dựa vào giới luật để thúc liễm thân tâm, thì chúng ta chìm đắm, vướng mắc những thú vui thế tục.

Tu Phật, học Phật giới đóng vai trò nền tảng, như móng của công trình kiến trúc vậy, nếu nền tảng vững chắc thì sự nghiệp phá trừ phiền não sẽ có kết quả tốt, bằng ngược lại, không học giới, trì giới thì dù tu pháp môn nào cũng khó dứt khổ đau. Vì, giới (戒, tiếng Phạn Śīla, Pali: sīla) chỉ hành vi, tập quán, tính cách, đạo đức; là pháp điều chỉnh thân tâm, khiến thân tâm thuần thục, trong sáng. Không chỉ hạn hẹp quy định những điều bất thiện trong phạm vi tôn giáo, hay đức xấu nơi đạo đức thế gian; mà còn tương ứng với quy chuẩn kinh doanh, pháp luật, kể cả việc điều dưỡng sức khỏe… chính là “phòng phi chỉ ác”. Phòng tránh các điều sai trái, dứt hẳn mọi việc ác, đó cũng là nghĩa gốc, nghĩa căn bản nhất của giới. Bàn rộng ra, phàm trong phạm vi tập quán đều là giới. Tập quán tốt quy về thiện giới, thiện luận nghi; không tốt thuộc ác giới, ác luật nghi. Giới trong nhà Phật: tịnh giới, thiện giới, với ý nghĩa thanh tịnh, vì hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia mà thiết định, có công dụng phòng phi chỉ ác. Đó là một trong ba môn vô lậu học – giới học.

Sự tương tức giữa giới học và định, tuệ học.

Ngày nay, người phát tâm tu hành giáo pháp giải thoát, dù chọn hành theo pháp môn nào cũng nên phải khởi đầu bằng việc học giới. Giới giúp tu thiện, là công cụ khiến thân, khẩu, ý ba nghiệp phòng tránh, chấm dứt tất cả các nghiệp ác, dù lớn dù nhỏ. Khi các nghiệp tương đối thanh tịnh, thì dựa trên nỗ lực thực hành các pháp môn mà tâm được an định, từ tâm tịnh mà trí tuệ quang minh khai mở, phá màn u tối của vô minh, thoát khỏi mọi phiền não khổ đau. Chính vì lẽ đó, ngài Xá Lợi Phất dưới sự chứng minh của đức Như Lai đã giải thích rất rõ mối tương quan thành tựu giữ các pháp, trong kinh Trung A Hàm phẩm Bảy Pháp kinh Thất Xa rằng: “Vì giới thanh tịnh, nên tâm thanh tịnh; vì tâm thanh tịnh nên kiến thanh tịnh; vì kiến thanh tịnh nên nghi cái thanh tịnh; vì nghi cái thanh tịnh nên đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh; vì đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh nên đạo tích tri kiến thanh tịnh; vì đạo tích tri kiến thanh tịnh nên đạo tích đoạn trí thanh tịnh.”[5] (Trung bộ 24, Kinh “Trạm Xe” cũng đồng nội dung). Theo bộ luận Thanh Tịnh Đạo của ngài Phật Âm (Buddhaghosa) triển khai thì: “Giới thanh tịnh” là tuân giữ nghiêm túc các học giới đã thọ; “Tâm thanh tịnh” là nhiếp phục năm triền cái, đưa tâm an trú vào các thiền-na; “Kiến thanh tịnh” là phân biệt danh-sắc, sự thấy đúng danh và sắc như vậy, một sự thấy đã được an lập trên sự không mê mờ, do đã vượt qua ảo tưởng về tự ngã; “Nghi cái thanh tịnh” là thấy rõ quá trình tâm lý và vật lý tự phô bày sự thật duyên khởi, sự tồn tại và sự tan rã của các cảm thọ, các tưởng, không còn nghi ngờ gì nữa; “Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh” là biết rõ các cảm thọ hỉ, lạc đều là chướng ngại cho sự phát triển trí tuệ rộng lớn, liền giác tỉnh, rồi khởi cảm thọ. Hành giả đắc được trí biết rõ cái gì là Đạo và cái gì là chướng đạo (hay Phi đạo)Bấy giờ, hành giả tự mình biết chắc rằng: giờ đây ta mới thực sự hạnh phúc; “Đạo tích tri kiến thanh tịnh”: thấy rõ quá trình thực hành, tu tập; thấy rõ hiện tượng tan rã của các quá trình thân và tâm, thấy không có gì hiện hữu nữa; các đối tượng chú tâm đều tan rã. Hành giả thấy rõ ba pháp ấn: khổ, vô thường, vô ngã; “Đạo tích đoạn trí thanh tịnh ” là tâm hoàn toàn thanh tịnh do thấy và biết. Trong giai đoạn này, hành giả đi vào các tầng thánh Đạo-Quả (Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, và A-la-hán), sau khi thành tựu Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi và Bát Chánh đạo. Trong đó, gồm 3 phần: Giới, Định, và Tuệ rõ ràng. Phần đầu là tu tập hành trì giới, để đưa đến Giới thanh tịnh. Tiếp theo là phần tu tập Định, có đề cập đến phát triển các tầng thiền-na đưa đến Tâm thanh tịnh. Từ đó, làm nền tảng để tu tập Tuệ để đưa đến các thanh tịnh kế tiếp.

Cũng như vậy, trong Tạp A Hàm quyển 14 kinh số 345 Phật dạy: “Vì lười biếng nên dao động, không luật nghi, không học giới; vì không học giới nên thất niệm, không chánh tri, loạn tâm; vì loạn tâm nên không chánh tư duy, thân cận tà đạo, tâm biếng nhác; vì tâm biếng nhác nên thân kiến, giới thủ, nghi; vì nghi nên không lìa tham, nhuế, si; vì không lìa tham, nhuế, si nên không thể lìa được già, bệnh, chết.”[6] Rất rõ ràng, lộ trình tu tập để thoát sanh tử, từ các bước như kinh dạy, suy ngược lại, khi hành giả đã lìa được già, bệnh, chết sẽ không còn si, nhuế, tham…giới, luật nghi tự nhiên thanh tịnh.

Giới định tuệ học, khi phât tích thì có sự thực hành, thành tựu trước sau, thế nhưng trong tu tập thường là đồng thời. Người vui học giới sẽ tinh tấn điều phục tâm ý, khai mở tuệ giác. Hay nói cách khác, luyện tâm, bồi trí cũng là đang giữ giới vậy. Thế nên, hành giả đừng quá chấp vào giai đoạn thực hành (phải thực hành cái này trước, cái kia sau) mà kết quả đạt được e không mấy khả quan.

Giới luật là đạo sư như Thế Tôn tại thế vậy

Giới học dù không phá được tận gốc các phiền não ma của người học Phật, thế nhưng để sanh lậu tận trí diệt trừ được tất cả lậu hoặc, thì không thể không hành trì giới luật. Với ý nghĩa như vậy, đức Như Lai trước khi nhập niết bàn, vì thương cho hàng đệ tử đời sau, nghiệp chướng sâu dày, chẳng vui học giới, tu nhiều mà chẳng thấy kết quả bao nhiêu, nên đã căn dặn rất kỹ trong kinh Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới quyển 1: Này các tỳ kheo, sau khi ta nhập diệt, các thầy phải tôn kính, trân trọng giới luật, như người mù mà được sáng mắt, người nghèo mà được châu báu; phải biết rằng giới luật là vị đại sư cao cả của các thầy, nếu ta còn sống ở đời thì cũng chẳng khác gì giới luật này.(汝等比丘,於我滅後,當尊重珍敬波羅提木叉, 如闇遇明、貧人得寶,當知此則是汝大師,若我住世無異此也)[7]. Kinh văn nói rất rõ rằng, sau khi đức Phật diệt độ thì phải tôn trọng quí kính tịnh giới, như người mù được sáng mắt thì phải giữ gìn bảo vệ con mắt đó, như người nghèo mà được vàng ngọc thì phải cất giữ cẩn thận. Phải biết rằng tịnh giới là bậc thầy cao cả chẳng khác nào đức Phật còn tại thế. Theo hòa thượng Thích Viên Giác phân tích các lợi ích của việc học giới trong sách Kinh Di Giáo lược giảng[8], chúng ta thấy, giới quả là bậc thầy cao cả:

Giới đưa đến giải thoát, chính thuận với căn bản giải thoát, nên biết nhờ giới mà phát sinh thiền định và trí tuệ có năng lực hủy diệt thống khổ. Vì vậy khi chúng ta thọ trì giới mà cảm thấy gò bó, sinh ra nhiều phiền não, không cảm nhận được sự an lạc thì phải xem lại nội dung và phương pháp hành trì.

Giới duy trì thiện pháp: Ai giữ giới thì người đó có thiện pháp, khi đình chỉ điều ác, ngăn ngừa điều ác thì bao hàm nghĩa tác thiện. Về mặt tâm lý, khi khởi tâm không làm điều ác nghĩa là tâm đang hướng thượng, từ đó, những pháp thiện (từ ý niệm, hành vi và ngôn ngữ) chưa sinh sẽ sinh, thiện pháp đã sinh được tăng trưởng, dẫn đến lợi ích an vui.

Giới thành tựu công đức: không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không thể phát sinh. Công đức ở đây có nghĩa là những thành quả do tu tập mà có. Những thành quả ấy gồm các cấp độ thiền định như sơ thiền cho đến diệt thọ tưởng định, hoặc đến chứng tam minh.

Từ căn bản là giới con đường tu tập được thiết lập, nhưng giới không phải chỉ là tuân thủ các giới điều mà còn bao gồm công phu tu tập, kiểm soát các nhiễm ô của tâm lý, thành tựu công đức là thực hiện viên mãn các bước tiếp theo. Do đây, đức Như Lai mới dạy, lấy giới làm thầy – người đưa đường chỉ lối cho chúng ta trên lộ trình tu đạo giải thoát.

Từ đó cho thấy, người học đạo để thăng tiến trong các pháp hành, bước đầu tiên cần phải phụng trì giới luật, giữ gìn cho thanh tịnh, trong sáng như nước như ngọc. Nhờ giữ giới tức là nhờ chú tâm cảnh giác ngày cũng như đêm mà kéo những phiền não ấy ra khỏi tâm thức. Có như vậy thì tâm mới an định, từ tâm sáng suốt quán chiếu để nhận chân được thực tướng của các pháp, nhờ đó mà trí tuệ phát sanh, dứt trừ phiền não, thoát ly sanh tử luân hồi.

 

Vĩnh Nghiêm, Hạ, PL. 2560

 

@ Bài đăng trên “Suối Nguồn Giải Thoát”, Tổ Đình Sùng Đức, 2016

 

[1] T19, no. 945, p. 131, c14 (T = Đại tạng kinh (bản chữ hán); no = kinh số; p = số trang; a,b,c = đoạn, hàng số).

[2] T12, no. 374, p. 553, a5-6.

[3] T09, no. 278, p. 433, b13.

[4] T03, no. 159, p. 306, c14-15.

[5] Tuệ Sỹ dịch và chú, Trung A-Hàm, NXB Phương Đông, 2009, tr.80.

[6] Thích Đức Thắng dịch, Tuệ Sỹ hiệu chính và chú thích, Tạp A-Hàm, NXB Phương Đông, 2010, tr.694.

[7] T12, no. 389, p. 1110, c20-22.

[8] http://www.budsas.org/uni/u-kinhdigiao/digiao-02.htm

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


The reCAPTCHA verification period has expired. Please reload the page.