Học Đạo
Tỳ kheo Thích Nguyên Các
Ông cha ta đã để lại cho con cháu đời sau những câu nói thật hay, thật đẹp, được đúc kết từ kinh nghiệm cuộc sống. Với nghĩa khuyên bảo, dạy dỗ nếp ăn, lối sống, đối nhân sử thế sao cho lịch sự, tế nhị, đạo đức; chính vì lẽ đó, tiền nhân nhắc nhở chúng ta cần phải học từ những điều tưởng như nhỏ nhất: học ăn, học nói, học gói, học mở.
Chúng ta ngoài sống trong không gian văn hóa dân tộc Việt Nam, còn theo tu tập giáo lý Phật đà gọi là học đạo.
Học là nghiên cứu, hiểu, lĩnh hội. Học là quá trình tiếp thu cái mới hoặc bổ sung, trau dồi các giá trị, nhận thức, kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm hoặc sở thích và có thể liên quan đến việc tổng hợp các loại thông tin khác nhau. Khả năng học hỏi là sở hữu của loài người, một số loài động vật và thậm chí một vài loại máy móc tối tân nhất định. Học gì? Học với mục đích gì? Học như thế nào? Sẽ có những thành tựu hay hậu quả tương ứng.
Đạo là chân lý, là cái lẽ nhất định ai cũng phải noi theo.
Học đạo nghĩa là học cái chân lý, cái lẽ tự nhiên ai cũng phải như thế.
Vậy, chúng ta học đạo là học Phật, tu theo giáo lý của Ngài dạy, để nhận thức đúng giá trị của nhân sinh, để hiểu cho tường tận quy luật tồn tại tự nhiên của pháp.
Giáo học của Đức Thế Tôn thì bao la, chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Thế thì, trước hết phải tìm hiểu xem căn bản của Phật pháp là gì? Điều này thiền sư Ô Sào đã trả lời cho Bạch Cư Dị rằng: “Các điều ác chớ làm, vâng làm những điều thiện (chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành)”. Đơn giản quá phải không? Có lẽ chúng ta cùng suy nghĩ như Bạch Cư Dị là câu này con nít ba tuổi cũng biết. Nhưng với thiền sư thì ông lão tám mươi làm chưa rồi. Quan trọng là ở một chữ “làm”.
Trong cuộc sống thường nhật, những điều chúng ta đã và đang làm, được bao nhiêu phần là thiện?
Làm một việc thiện chính là gieo một nhân thiện, đủ duyên sẽ gặt một quả thiện. Một hành động thiện cho ra một hoàn cảnh thiện. Ngược lại, hành động bất thiện sẽ chiêu cảm cảnh ác, và quả báo dữ sẽ liền theo. Ngày nay, chúng ta nghe những lý thuyết cao siêu cho sướng lỗ tai, để thể hiện cái tôi về mặt tri thức thôi, chứ hàng ngày làm toàn chuyện động trời, vậy việc nghe pháp có ích lợi gì không? Thế nên chi bằng, nghe những điều thiện bình thường, rồi áp dụng nó vào đời sống của mình, sẽ hữu ích hơn nhiều. Bởi đó chính là cái nhân lành để chúng ta có một hoàn cảnh tốt đẹp trong tương lai. Chúng ta là người gieo nhân và cũng chính chúng ta thừa hưởng cái quả của những nghiệp nhân đó. Không ai có thể quyết định thay cho mình.
Nói theo thuật ngữ hay dùng, học đạo ở đây nhằm giới thiệu cách học và hiểu giáo lý của đạo Phật cần phải thiền định, nhận thức, quán chiếu, tư duy.
Người đệ tử Phật tùy theo căn cơ trình độ của mình mà có thể tu học: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát đại thừa. Nếu gặp thầy hay bạn giỏi hướng dẫn học tốt, tu đúng, sẽ đem lại kết quả an lạc tương ứng với “thừa” mà mình tu học. Cụ thể:
– Học tu tam qui y, ngũ giới pháp là nhân thừa. Để đảm bảo cơ hội làm người, chúng ta nương vào Phật, pháp, tăng để vững vàng trên đường học đạo. Giữ giới không sát hại, mà bảo vệ sự sống của muôn loài. Không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do tự mình tạo ra, ý thức được lường gạt, trộm cắp, áp bức và bất công xã hội gây ra khổ đau. Không có liên hệ tình dục với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức, lâu dài. Không nói những lời gian dối, hiểu được lời nói thiếu chánh niệm là do thiếu khả năng lắng nghe sẽ gây ra đau khổ. Không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ bất cứ một sản phẩm nào có độc tố gây hại cho thân và tâm.
– Học tu thập thiện nghiệp đạo là thiên thừa. Muốn sanh lên cõi trời, thì trong cuộc sống, phải chú ý mọi hành động, cố gắng không tạo ra nhân ác. Mà nên thực hành tốt nhất những điều: không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dật, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác, không tham lam, không giận hờn, không si mê. Mở rộng ra là phải tôn trọng bảo vệ sự sống, … (ngũ giới), và biết bố thí, sống hỷ xả, chánh niệm, chánh kiến.
– Học tu tứ diệu đế là thanh văn thừa. Nghĩa là quán chiếu bốn sự thật: thứ nhất là khổ đau đang có mặt (khổ đế), nhờ đó mà mình có thể học hiểu, học thương và giác ngộ được. Cũng như không có bùn thì làm sao mà có sen. Thứ hai là sự hình thành (tập đế), nhìn sâu để thấy rõ nguyên nhân gây nên khổ. Gọi cho đúng tên chúng, từ đó chọn trong lời dạy của Đức Phật pháp đối trị và tu tập liền, đừng có đợi. Thứ ba là sự vắng mặt của khổ đau (diệt đế), sau khi nhận diện được khổ có mặt, kinh qua thực tập sự thật thứ hai thì khổ đau sẽ không còn, đồng nghĩa hạnh phúc hiện diện. Thứ tư là con đường, là phương pháp (đạo đế), từ việc thấy được sự thật thứ hai rồi thì chắc chắn thấy được sự thật thứ tư là đạo đế, con đường lấy đi gốc rễ của khổ đau bằng hành động, bằng sự sống hằng ngày.
– Học tu thập nhị nhân duyên là duyên giác thừa. Nói cách khác nhân để đạt hàng duyên giác là phải thực tập cho thuần thục mười hai nhân duyên. Tức là quán sát tất cả các sự vật, cho đến luân hồi, đều do nhân duyên mà phát khởi, nhân duyên hội họp thì gọi là sanh, nhân duyên tan rã thì gọi là diệt, sự thật vốn không có cái gì sanh, cái gì diệt cả. Mười hai nhân duyên ấy là vô minh duyên ra hành, hành duyên ra thức, thức duyên ra danh sắc, danh sắc duyên ra lục nhập, lục nhập duyên ra xúc, xúc duyên ra thọ, thọ duyên ra ái, ái duyên ra thủ, thủ duyên ra hữu, hữu duyên ra sinh, sinh duyên ra lão tử.
– Học tu lục độ vạn hạnh là đại thừa Bồ-tát. Nhập Bồ-tát đạo, phải thực hành bố thí để độ được nết keo kiệt, trì giới độ làm việc quấy, nhẫn nhục độ lòng tức giận, tinh tấn độ sự lười biếng, thiền định độ tán loạn, bát-nhã độ ngu si.
Học đạo dưới sự chứng nghiệm của Trúc lâm sơ tổ Trần Nhân Tông, được thể hiện qua bài phú Cư Trần Lạc Đạo là: Cư trần lạc đạo thả tùy duyên (Cõi trần vui đạo hãy tùy duyên – Huệ Chi dịch). Ngụ ý là người học đạo nên có khả năng ứng xử hợp lý (tùy) với mọi tình huống (duyên) xảy ra trong cuộc đời này. Nhưng phải “vô tâm”.
Dù ở góc độ nào thì học đạo là để tỉnh ngộ, khi nhận thức rõ chân lý: vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh của hiện tượng vạn pháp. Tức biết rõ bốn đức của niết-bàn: thường, lạc, ngã, tịnh. Khi ấy, hiện tượng không ngoài bản thể, vô vi không rời hữu vi, Phật tánh không ngoài vô minh. Phật tánh và vô minh nói một không phải, nói hai không đúng. Phiền não tức bồ đề, sanh tử tức bồ đề.
Vĩnh Nghiêm, Mùa hạ PL. 2559 – 2015
@ Bài đăng trên “Tri Thức Phật Giáo”, số 15.