Góc Nhìn

Thờ Cúng Tổ Tiên

Thờ Cúng Tổ Tiên

Thờ Cúng Tổ Tiên

                                                                                             Tỳ kheo Nguyên Các

Vào thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, sùng bái tổ tiên là phổ biến nhất trong các tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy. Các tài liệu nghiên cứu về Dân tộc học cho thấy, thế giới có rất nhiều dân tộc từng tồn tại văn hóa sùng bái tổ tiên. Theo tác giả Lâm Huệ Tường trình bày trong tác phẩm Văn Hóa Nhân Loại Học thì “rất nhiều dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên từ rất sớm, như:  dân tộc Negroes ở Châu Phi, hay người New Caledonians ở Châu Á hay người La Mã cổ đại…[①] Thế nhưng, trong phạm vi bài viết nhỏ này, chỉ nêu vài điểm trong phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt.

Thờ cúng tổ tiên là một hình thái tín ngưỡng truyền thống phổ biến, có vị trí cao trong đời sống tinh thần của người Việt. Kính ngưỡng, thờ cúng tổ tiên, mang nhiều lớp ý nghĩa; trong đó tầng thể hiện lòng hiếu kính của con cháu, đối với ông bà tổ tiên, được cho là chủ yếu nhất thời nay.

Không có nguồn sông từ đâu chảy, cây không cội cây nảy mầm từ đâu, làm người kính tổ quy tông, đạo trời đã tỏ người nay phải làm.

Kính tổ quy tông là nét đẹp tâm hồn, là đạo đức sống, là một phần quan trọng trong tín ngưỡng của người dân. Vì thế, trong mỗi gia đình người Việt ngày nay, có thể không có bàn thờ một vị thần, hay giáo chủ một tôn giáo nào, nhưng ban thờ gia tiên thì hầu như nhà nào cũng có. Nói ngày nay là vì có những giai đoạn trong lịch sử, đất nước không độc lập, chẳng chủ quyền, chúng ta tiếp nhận hoặc bị ép theo các tôn giáo, tư tưởng từ phương Tây truyền vào một cách cực đoan, mà (tạm thời) quên đi tín ngưỡng truyền thống đậm chất nhân văn của dân tộc Việt.

Khi các hệ tư tưởng và tôn giáo chưa xuất hiện trong xã hội loài người, thì các tín ngưỡng nhân gian đã tồn tại; trong đó thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng truyền thống phổ biến nhất. Điều này đã được các nhà khảo cổ học khẳng định qua các công trình khảo cổ, từ những khu mộ cổ, hay cổ vật như trống đồng Đông Sơn của Việt Nam, cũng như dựa vào các di chỉ, di vật của cư dân văn hóa Hòa Bình mà các nhà khoa học đã khám phá được, cho thấy rằng, “cách nay khoảng trên một vạn năm, quan niệm về mối liên hệ giữa thế giới người sống với thế giới người chết đã xuất hiện[②].

Bất kỳ hệ tư tưởng, luân lý nào hình thành và phát triển đều dựa trên nền tảng lịch sử dân tộc, cũng như diễn biến văn hóa của dân tộc ấy mà thành; thế nên, chúng có mối liên hệ mật thiết với yếu tố tự nhiên trong xã hội và sự biến đổi của văn hóa dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng vậy, nảy sinh, tồn tại và lưu truyền trên tiền đề bối cảnh của nền văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị. Chẳng hạn như: truyền thống nhân văn sâu đậm, kết cấu chính trị, xã hội lấy gia tộc làm trung tâm, nền kinh tế là nông nghiệp lúa nước hay chế độ tài sản công hữu của tập đoàn huyết thống trong lịch sử Việt Nam…đều là mảnh đất màu mỡ cho tư tưởng luân lý thờ cúng tổ tiên sinh trưởng.

Theo sự phát triển của nhân loại, loài người từ phương thức săn bắn, hái lượm sang trồng trọt chăn nuôi, đều là tự cung tự cấp. Xã hội, chính trị xem trọng thị tộc.   Dân tộc Việt cũng thế. Chính từ nền sản xuất nông nghiệp lúa nước đã sản sinh ra tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước, Mưa…), sùng bái các loài động vật, thực vật (chim ưng, cá sấu, trâu, rồng, lúa…) và tín ngưỡng sùng bái con người.

Từ rất sớm đã có quan niệm con người được tạo thành từ hai phần vật chất và tinh thần. Phần vật chất có thể thấy, nắm bắt được; phần tinh thần trừu tượng, khó nhận định, nên người xưa đã tạo nên một khái niệm đó là ‘linh hồn’, chính phần linh hồn mở ra tín ngưỡng thờ cúng người đã khuất. Chết là trạng thái cơ thể vật chất từ động trở thành tĩnh, khi ấy phần hồn sẽ từ cõi dương sang cõi âm. (Điều này có thể là sản phẩm của triết lý âm dương.) Tức thế giới bên kia. Mà với cư dân nông nghiệp lúa nước, đa phần sống nơi đồng bằng, bị ngăn cách bởi hệ thống sông rạch, phương tiện di chuyển phổ biến là thuyền bè. Có lẽ chính vì thế, nên khi đưa người chết sang thế giới bên kia cũng phải dùng thuyền. Điều này được ghi nhận trong nền văn hóa Đông Sơn. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện mộ thuyềnquan tài hình thuyền, tại các khu mộ Việt Khê (Hải Phòng), La Ðôi (Hải Hưng), Châu Can, Xuân La, Kim Ðường, Minh Ðức, Phú Lương, Phương Tú, Trầm Lộng (Hà Tây), Châu Sơn, Yên Từ (Nam Hà), Phương Nam (Quảng Ninh), nhiều trong số đó có kích thước khá lớn, dài trên 5m thuộc nền văn hóa Đông Sơn.[③] Từ đó sản sinh ra khái niệm nơi người chết đi về gọi là chín suối. Chính với niềm tin thác về chín suối, ông bà tổ tiên vẫn có thể về thăm, phù hộ cho con cháu ở dương gian là cơ sở hình thành tín ngưỡng sùng bái tổ tiên của dân tộc Việt. [④]

Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng vào ngày mất gọi là giỗ, thường được tính theo âm lịch – ngày ta. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng một, ngày rằm (ngày sóc, vọng), và các dịp lễ Tết trong năm như: Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ… Như đã nói trên, tục thờ cúng ảnh hưởng bởi kinh tế, chính trị nên những gia đình có điều kiện hay dòng họ làm quan to, việc dâng hương ban thờ tổ tiên diễn ra hàng ngày. Hay những khi trong nhà có việc quan trọng như làm nhà, dựng vợ gả chồng, sinh con, thi cử… người Việt cũng làm lễ cúng tổ tiên để cẩn cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công.

Ban thờ tổ tiên là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất, nên bài trí nơi cao ráo, trang trọng nhất trong nhà. Nhà theo lối truyền thống, thường ban thờ đặt giữa gian chính, nhà có điều kiện kinh tế, hay có địa vị xã hội thì làm riêng một gian hoặc một căn để thờ. Cách sắp đặt, vật bài trí trên ban thờ, tùy vào văn hóa vùng miền mà có sự không đồng. Như miền Bắc, theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Lê Quang Khang, bàn thờ gia tiên thường được thiết lập hai lớp. Lớp trong kê sát tường hậu là chiếc rương lớn, trên đó đầu tiên là bày bài vị. Bài vị là một cái thẻ làm bằng giấy hay bằng gỗ mỏng, giữa ghi họ tên chức tước, hai bên ghi ngày tháng năm sinh, tử của người được thờ, gọi là thần chủ. Gia đình có điều kiện kinh tế, bài vị được đặt trong cỗ khám, hoặc cỗ ngai rất trang trọng. Ngai và khám nhà thường dân cũng như các đồ thờ cúng khác không được chạm vẽ rồng hay tứ linh mà chỉ chạm vẽ hình tượng biến hóa con vật ấy. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, tại các nhà thờ tư gia hay các bàn thờ mỗi gia đình ít khi có thờ thần chủ, chỉ những nhà có quan tước khoa bảng, nề nếp hay những nhà hào trưởng giàu có mới thờ thần chủ. Thời nay, phần nhiều thay bài vị bằng chân dung hoặc tượng.

Đồ thờ thường có: bát hương (tượng trưng cho tinh tú), trên bát hương có cây trụ để cắm hương (nhang) vòng (tượng trưng cho trục vũ trụ), được đặt ở chính giữa bàn thờ, biểu trưng cho sự hòa hợp giữa đất trời, vũ trụ, giữa người sống và người đã khuất. Hai cây đèn (nên dùng đèn dầu, hay nến) tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, cũng biểu hiện sự tiếp nối trí tuệ, truyền thống, gia phong đời đời không dứt…Đặt xen giữa đèn và bát hương là hoa quả (không nhất thiết phải là ngũ quả, quan trọng là hoa tươi quả tốt), phía trước (hoặc sau) bát hương để một (ba) bát (chén, ly) nước trong, coi như nước thiêng. Ngoài ra, vào ngày giỗ hay lễ Tết có mâm cỗ cúng (chay, mặn đều được, Phật tử nên cúng chay). Ngoài ra, trên ban thờ còn có bộ đồ tam sự hay ngũ sự, hay thất sự bằng đồng; tam sự là một cái đỉnh và hai cây cắm nến, ngũ sự thì thêm hai cây để đĩa dầu thắp đèn, thất sự thì thêm một ống hạp hương để đựng trầm với một ống cắm đôi đũa và một dụng cụ đều bằng đồng để đốt trầm. Hai cây đèn bộ đồ thất sự để hai góc trong trên hương án.

Ban thờ, gian thờ, nhà thờ tổ tiên, dù lớn nhỏ, nhưng đó là văn hóa là lối sống của con cháu Lạc Hồng. Tấm lòng tri ân, hiếu đạo với tổ tông của dân Việt. Đồng thời cũng phản ánh đời sống tín ngưỡng, tâm linh với người đã khuất. Vì vậy, yếu tố trang nghiêm, sạch, thoáng là quan trọng hơn hết.

Vậy, bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế, nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm. Là cách thể hiện đạo lý Uống nước nhớ nguồn. Là nét đẹp trong dòng văn hóa Việt.

 

Vĩnh Nghiêm, mùa an cư PL.2561.

 

[①]  林惠祥,《文化人类学》,北京:商务印书馆,1991 年版,p.245-246.

[②]  Nguyễn Khắc Thuần, Tiến Trình Văn Hóa Việt Nam Từ Khởi Thủy Đến Thế Kỷ XIX, Nxb Giáo Dục, 2006, p.74.

[③] Hoàng Xuân Chinh, “Lịch sử phát hiện và nghiên cứu”, tức chương I trong Văn hóa Ðông Sơn ở Việt Nam, Viện Khảo cổ học, Hà Văn Tấn chủ biên, nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, VN, 1994.

[④] Trần Ngọc Thêm, Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, Nxb Tổng Hợp Tp. HCM, 2006, p.249.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


The reCAPTCHA verification period has expired. Please reload the page.