Góc Nhìn

Bàn Về Đốt Đồ Mã

Bàn Về Đốt Đồ Mã

Bàn Về Đốt Đồ Mã

Tỳ kheo Nguyên Các

Tục đốt đồ mã trong các nghi lễ cúng bái đã tồn tại và được người dân Việt Nam (chủ yếu là người miền Bắc hay người gốc Hoa) thực hiện bao đời nay, như một phần lễ vật. Chính vì được “nâng tầm” thành loại vật để cúng lễ, nên nếu thiếu thì mọi người sợ có lỗi với thần thánh, ông bà tổ tiên… Hoặc cũng có thể nói, việc chuẩn bị đồ mã để cúng thánh thần… như một thói quen, tục lệ được truyền từ xưa, người nay vẫn theo đó mà làm.

Với cách nhìn nhận trên nên chẳng mấy ai cất công tìm hiểu cái tục cúng đồ mã xuất hiện ở Việt Nam từ thời nào, bối cảnh xuất hiện ra sao, mang ý nghĩa gì? Chỉ cần đời sống tâm linh được an là làm.

Ngày nay, văn hóa phát triển, xã hội văn minh, nhất là việc giao lưu văn hóa với thế giới ngày càng rộng, thì khi nhắc đến đốt vàng mã, đa phần đều nói đó là mê tín, là hủ tục, thậm chí còn dùng nhiều từ khiếm nhã để phê phán. Thế nhưng, đối với một tục lệ đã tồn tại trong ý thức (một phần) người dân hàng nghìn năm, thì không thể chỉ nhìn ở khía cạch mê tín, hủ tục…Mà chắc chắn tục lệ ấy phải có ý nghĩa nhất định, thậm chí hàm ẩn tính nhân văn trong đó. Tất nhiên, khi xem sét ý nghĩa hay tính nhân văn, phải nói đến yếu tố không gian và thời gian. Thời đại công nghệ phát triển, cách mạng công nghệ 4.0 (có thể) vàng mã bị cho là không nên tồn tại, thế nhưng trong thời kỳ nào đó lại rất được xem trọng. Không chỉ tục đốt mã, mà nói rộng hơn, nhìn “dưới lăng kính vô thường, nhân duyên” thì mọi thứ từ vật chất đến tinh thần đều sẽ thay đổi. Thay đổi về cả hình thức lẫn nội dung, sự biến đổi nhiều hay ít còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời gian bao lâu? Thể chế chính trị, kinh tế xã hội, hệ tư tưởng…Chúng ta nêu vài trường hợp điển hình để làm rõ ý (biến đổi) trên: Tư tưởng học thuyết của Khổng Tử, khi ông còn tại thế không được giới cai trị chấp nhận và vận dụng, mặc dù ông đã đi khắp nơi để trình bày, ra sức thuyết phục các bậc quân vương; nhưng sau khi ông mất, nhờ các thế hệ học trò phát triển mà tư tưởng Nho học trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhiều triều đại phong kiến Trung Hoa, thậm chí còn lan xa, ảnh hưởng đến Triều Tiên (Nam, Bắc Hàn), Nhật Bản, Việt Nam…Trong lịch sử tồn tại, cũng có những thời điểm tư tưởng Nho giáo bị coi là lạc hậu, thậm chí chính quyền còn thực hiện chính sách “chôn nho đốt sách”.

Hay thuyết nhật tâm được Galileo nêu trong quyển sách của ông xuất bản năm 1610, sau thời gian quan sát, nghiên cứu về thiên văn, nhưng không những không được hệ thống chính trị, tư tưởng công giáo Roma đương thời xem sét công nhận, mà ông còn bị đưa ra tòa vì những phát hiện khoa học ấy và bị kết án tù. Đến khi nền khoa học thiên văn phát triển, chứng minh mặt trời nằm ở trung tâm của vũ trụ hay hệ mặt trời, lúc ấy, thế giới lại tìm về với những khám phá và công nhận, đề cao những nghiên cứu của Galileo.

Một trường hợp nữa là hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, Tam Phủ, Tứ Phủ của Việt Nam. Nói không xa, trước khi được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại, hầu đồng, trừ người theo tín ngưỡng này thì từ các nhà quản lý, đến giới khoa học, người dân…phần lớn đều cho đó là hành động mê tín dị đoan, là lừa gạt, là buôn thần bán thánh. Báo chí, truyền thông thì không ngừng lên án, phê phán, thậm chí đả phá việc hầu đồng. Thế nhưng sau ngày 1/12/2016 thì lại “tranh nhau” nghiên cứu, viết, phát biểu về văn hóa hầu đồng, nhà nhà mở phủ, người người trình đồng. Hay tục nhuộm răng đen của người Việt xưa, được hình thành từ thời vua Hùng và tồn tại rộng rãi cho đến nửa đầu thế kỷ XX, một thời được coi là tiêu chuẩn của nét đẹp mà người phụ nữ Việt không thể thiếu.

 Như vậy có thể thấy, một hệ tư tưởng, một phát minh khoa học, một phong tục, hay một nghi thức tâm linh, trong dòng chảy lịch sử đều có những lúc “thăng, trầm”. Đến một lúc nào đó, “sứ mệnh lịch sử” đã hoàn thành, nghĩa là không phù hợp với thời đại, với văn minh xã hội…thì chẳng cần ai lên tiếng hô hào đả phá, tự mọi người ý thức được và không thực hiện nữa; chẳng hạn như phong tục nhuộm răng đen, ngày nay người dân tộc kinh chẳng mấy ai “thương răng láng hạt huyền”, “tiếc người răng đen” nữa.

Với tục đốt vàng mã chúng ta không nên chỉ đứng ở góc độ văn minh thời đại, hay một khía cạnh nào đó để phán xét, như vậy dễ dẫn đến nhận định phiến diện, võ đoán; thế nên cần tìm hiểu một chút về nguồn gốc tập tục này để hiểu hơn về sự hình thành, tồn tại và giá trị ý nghĩa của nó trong từng thời kỳ.

Ai Cập cổ đại giai đoạn năm 3100 – năm 30 trước Công  nguyên, Pharaoh là hiện thân của quyền lực tối cao trên mặt đất. Họ quan niệm khi chết là bắt đầu cho triều đại, cuộc sống mới nơi âm phủ, nên các Pharaoh đã ra công xây dựng những kim tự tháp nguy nga, tráng lệ để ướp xác mình. Và, dặn chôn theo vàng bạc, châu báu, thậm chí các hoàng phi, cung tần mỹ nữ (còn sống) của họ, với mục đích tiếp tục hưởng thụ ở cõi âm.

Trung Quốc cổ đại cũng có tục tùy táng, tuẫn táng tương tự như ở Ai Cập. Tùy táng – chôn theo các vật dụng tài bảo khi người mới chết dùng lúc còn sống hoặc dùng đất sét hay các chất liệu khác làm mâm bát, vật dụng thường nhật, dùng tre gỗ làm nhạc khí, như chuông khánh, đàn sáo v.v… để chôn theo người chết. Tuẫn táng nghĩa là khi các vua và các quan lớn chết đi, từ vợ con đến bộ hạ của các vua, các quan lớn, đồ yêu quý của người chết khi còn sống, sẽ phải đem chôn sống để làm đồ dùng khi đã chết. Nội dung này trong bài viết “Nguyên Nhân Tục Đốt Vàng Mã” và “Bàn Về Vàng Mã” của hòa thượng Thích Tố Liên đăng trên báo Đuốc Tuệ năm 1952 trình bày rất rõ, trong bài viết nhỏ này, chúng tôi tóm lược vài ý như sau: Vào những năm 2205 trước Công nguyên – thời nhà Hạ, người Trung Quốc mới có tục làm đồ đất, đồ gỗ chôn theo người chết. Nhưng đến đời nhà Chu (1122 trước Công nguyên), họ lại có tục tuẫn táng, chôn sống vợ con, bộ hạ, đồ vật yêu thích của vua, các quan lớn khi những người này chết. Về sau, thấy lệ tuẫn táng quá tàn nhẫn, vô nhân đạo nên người Trung Quốc đã dùng nhiều vật liệu như gỗ, đá, đất trộn rơm… chế ra hình người, để chôn thay người thật. Đến triều đại nhà Hán đời Hán Hòa đế (79 – 105) người Trung Quốc mới phát minh ra giấy, có nghĩa là đồ mã, giấy tiền vàng bạc phải xuất hiện sau thời điểm này. Vàng bạc, quần áo v.v… bằng giấy thay thế cho vàng bạc và đồ dùng thật trong các dịp tang ma, tế lễ, cúng rồi đốt đi.

Như vậy, có thể nói trong thời kỳ đầu việc làm hình người bằng đá, gỗ, đất trộn rơm…để tùy táng thay người sống thật, đến việc chế ra hình nộm, tiền bạc bằng giấy để “gửi” cho người chết là quá nhân văn và tránh lãng phí tài vật thái quá.

Tục tùy táng của người Việt cổ được các nhà khoa học phát hiện khi khai quật các di chỉ khảo cổ thời văn hóa Đông Sơn (nền văn hoá của thời đại Hùng Vương kéo dài từ thế kỷ thứ VII trước công nguyên – thế kỷ I, II). Theo PGS. tiến sĩ Bùi Văn Liêm, Phó viện trưởng Viện Khảo cổ học, người Đông Sơn cũng có tục chôn theo người chết các đồ dùng sinh hoạt, công cụ sản xuất và vũ khí; vì người thời đó quan niệm rằng chết là trạng thái cơ thể vật chất từ động trở thành tĩnh, khi ấy phần hồn sẽ từ cõi dương sang cõi âm, ở cõi đó người chết vẫn phải lao động, sinh hoạt và chiến đấu. Hiện nay, một vài dân tộc thiểu số ở Việt Nam, đặc biệt là vùng Tây Nguyên, vẫn còn tục chia của cho người chết trong Lễ bỏ mả và chôn theo đồ tùy táng như chiêng ché, vật dùng thật hàng ngày.

Nhưng tục đốt vàng mã của người Việt Nam, thì theo giáo sư Ngô Đức Thịnh -nhà nghiên cứu tín ngưỡng dân gian, cho đến nay vẫn chưa có một tài liệu nào khẳng định thời điểm xuất hiện tục đốt vàng mã ở nước ta, nhưng chắc chắn tục lệ này đã tồn tại từ hàng trăm năm do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Trong thời kỳ các triều đại phong kiến phương Bắc xâm lược nước ta, họ đem những sản phẩm văn hóa của họ để đồng hóa dân mình, trong đó có lệ đốt vàng mã; dân Việt thời ấy vẫn có phong tục chia của, tùy táng nên khi đồ mã được người phương Bắc mang qua thấy “hợp lý” liền áp dụng.

Thế nhưng đến lúc nào thì tục đốt vàng mã bị cho là mê tín, là hủ tục, là “sản phẩm lỗi” trong nền văn hóa. Đó là từ khi mọi người “đốt thái quá”, đỉnh điểm là quan niệm “gửi kho” (ký khố) xuất hiện. Gửi kho hay ký khố như hình thức gửi tiết kiệm ngân hàng ngày nay, là tục lệ xuất hiện tại nước Liêu vào đời Tống ở Trung Quốc (916-1125), thời ấy định kỳ hàng năm quan, dân trong nước chuẩn bị rất nhiều món vàng mã cùng dâng cúng thần linh rồi hóa, gọi chung là “ký khố”, với mục đích để sau khi chết xuống âm phủ lấy ra xài hoặc trả nợ Tào quan ở đó để khỏi tù tội. Với mục đích như thế nên mọi người đều muốn đốt nhiều, nhiều cả về số lượng, đến hình thức mẫu mã, nói chung người sống có gì thì đồ mã có đó. Mà với tâm thế như vậy, thì đốt vàng mã là mê tín, là lãng phí, là hủ tục, trái với ý nghĩa nhân văn ban đầu; mà như vậy thì cần phải bỏ, không còn gì phải bàn cãi.

Đạo Phật thì sao? Nơi đây chúng tôi khẳng định rằng Phật giáo không có tục cúng đồ mã. Trong hệ thống giáo lý Nguyên thủy cũng như Bắc truyền, chúng ta không tìm thấy nơi nào Đức Phật dạy về chia của hay đốt vàng mã cho người quá cố, lại càng không nói đến “ký khố” để trả nợ Tào quan mà giải được nghiệp xấu. Ngài dạy về nhân quả tương ưng, dạy về nghiệp lực luân hồi…Vậy thì, những ai là Phật tử chân chánh cứ theo đó mà hành, vì khi phát tâm quy y Pháp, chúng ta đã phát nguyện cả đời không học theo tà giáo. Mà đã không học theo những điều có thể dẫn đến sanh tử luân hồi, thì việc cúng đốt vàng mã thật không nên.

Những năm gần đây, người dân Việt Nam chúng ta lạm dụng việc đốt vàng mã, với tâm lý kiểu như “ký khố”, dẫn đến trào lưu bài trừ. Vì sao người dân lại cúng, đốt đồ mã quá nhiều như thế? Có thể do phú quý sanh lễ nghĩa, xưa kinh tế khó khăn chưa có, nay của ăn của để con cháu dư nên cũng muốn tỏ lòng với ông bà cha mẹ. Hoặc do tính “tức nhau”, không muốn kém người của dân ta, nên có kiểu đua nhau sắm mã cúng. Hay đáng báo động hơn, sống trong xã hội mà mọi người cảm thấy bất an, nên họ cần một chỗ bám víu, một sự “chuẩn bị” với mong muốn ngày sau tươi đẹp hơn. Nhưng dù với lý do gì đi nữa thì việc sắm đồ mã cho nhiều, lớn (con voi, ngựa,.. to như con trưởng thành, thuyền, xe bằng cái thật), để cúng rồi đốt là điều khó chấp nhận. Những con người sống trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0 mà vẫn tin, vẫn cho rằng đốt vàng mã cho nhiều (tốt lễ) thì thần linh sẽ phù hộ, người mất nhận được và cuộc sống nơi âm giới sẽ thoải mái sung sướng hơn thì thật đáng phê phán.

Thiết nghĩ, chúng ta sống trong nền văn hóa với rất nhiều truyền thống, phong tục tập quán, tục lệ, thủ tục, hủ tục…có điều còn hợp thời, có cái trở nên vô nghĩa. Vì thế, chúng ta phải sáng suốt để nhận định, vì là những tục lệ lâu đời, chưa thể bỏ hoặc sợ không phải lễ, hay để an tâm (dù là tạm thời) thì cũng chỉ nên làm ở mức “lấy lễ”. Không nên lợi dụng những tục lệ (về phần tâm linh) để mưu cầu thần linh ban phước, hay “hối lộ” thánh thần để người mất thoát tội…từ đó sanh tâm lý “tốt lễ dễ kêu”, dẫn đến hành động đốt vàng mã cho nhiều. Điều này thật mê muội. Nhìn góc độ khác, đốt đồ mã là lừa gạt thần linh, là gian dối với người đã khuất. Đồ thật (nhà thật, tiền thật, …) không cúng, đi cúng đồ giả, hàng mã làm bằng giấy. Mà đã là giả thì mang tính lừa gạt, như vậy thánh nào chứng, ông bà nào vui? Đó là chưa nói, khi các Ngài không ưng ý vì những món đồ dỏm, có khi lại phạt cho không chừng. Đừng làm thế nữa.

 

Vĩnh Nghiêm, mùa Vu – Lan PL.2062, DL 2018

Bài đăng trên Tri Thức Phật Giáo số 24

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


The reCAPTCHA verification period has expired. Please reload the page.