Góc Nhìn

Cái Sự Ăn Chay Ngày Nay

Cái Sự Ăn Chay Ngày Nay

Cái Sự Ăn Chay Ngày Nay

Tỳ Kheo Thích Nguyên Các

1. Ngày nay, ăn chay đã vượt ra ngoài ý nghĩa thuần chất tôn giáo. Phật giáo Việt Nam dù du nhập trực tiếp từ Ấn Độ vào trước, nhưng ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài là từ Phật giáo Trung Hoa. Trong các tư tưởng ảnh hưởng từ Phật giáo Bắc truyền đó có việc ăn. Đến nay, ăn chay đã thành một trong những nét văn hóa đẹp của Phật giáo, phù hợp với xu thế chung của thời đại.

Nhìn ra thế giới, một số tôn giáo, từ khởi thủy, hoặc theo xu hướng thời đại, họ cũng đề xướng không ăn thịt, như:

– Ấn Độ giáo chủ chương “phi bạo lực”, họ cho rằng, người càng có văn hóa, càng tránh xa ăn thịt các loài vật.

– Các tu sĩ, hiền triết Ai Cập (cổ) chủ trương ăn chay, là kiểu ăn chay tuyệt đối.

– Hội Cơ Đốc Phục Lâm tại Đài Loan, kêu gọi tín đồ ăn chay. Họ còn sản xuất ra những sản phẩm chay cao cấp, để tín đồ sử dụng trong giai đoạn quá độ.

– Tín đồ Nhất Quán Đạo, một tôn giáo ở Đài Loan, lấy “từ bi bất sát” làm tông chỉ của  việc ăn chay.

– Đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo ở Việt Nam cũng đều khuyến khích ăn chay.

Thế nhưng, tùy theo phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng tôn giáo mà có sự khác biệt trong cách ăn. Có nhiều nơi, ăn chay có nghĩa là: không ăn thịt heo, hay cữ thịt bò. Có quan niệm, ăn chay là không ăn các loại thịt động vật sống trên mặt đất, nhưng có thể ăn các loại sinh vật sống ở dưới nước.

Ở Việt Nam, danh từ  “chay” được đọc chệch từ từ “trai齋” có nghĩa là giữ trong sạch, ngăn tham dục, không ăn phi thời, quá ngọ không dùng,… “Ăn mặn” đọc chệch của từ “ăn mạng”, tức là ăn mạng sống của loài vật hữu tình. Từ gốc của ăn mặn là “huân葷”, nghĩa đầu tiên là các thức cay, hăng, tanh nồng như hành, hẹ, tỏi, kiệu, hưng cừ[1] (ngũ tân), còn có nghĩa nữa là các món ăn mặn (các thực phẩm chế biến từ mạng các loài động vật). Vậy, nghĩa mà chúng ta hiện đang dùng của từ ăn mặn, chỉ lấy vế sau (chế độ ăn uống có thịt động vật) của từ huân. Nên, dẫn đến tình trạng ăn chay chỉ được một nửa. Nấu chay mà dùng hành, tỏi, kiệu, hẹ để làm gia vị cho món ăn thơm ngon, hấp dẫn, vậy có phải là ăn chay? Tại sao ăn chay không được ăn hành, tỏi các loại rau củ nặng mùi. Chúng ta thử nghĩ, xung quanh ta nếu có ai ăn tỏi, hành…khi nói chuyện, thập chí chỉ đứng gần cũng có mùi rất khó chịu, huống hồ nhiều người ăn. Tụng kinh niệm Phật mà miệng phà ra hơi hành, hẹ e rằng Phật Tổ chạy hết! Về dược tính, các loại hành, tỏi có thể chữa, phòng chống một số bệnh, nhưng cũng chứa chất làm tăng ham dục. Điều này bất lợi cho người đang tu tập để diệt trừ tham dục. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy, những người tu thiền định, phải tránh xa “ngũ tân” nơi thế gian. Vì chúng, khi nấu chín ăn thì lòng dâm dục khởi, nếu ăn sống ý chấp ngã, sân hận gia tăng.

Ngoài ra, người trì trai thì quá ngọ không ăn, ngày nay người ăn chay chỉ ăn các chế phẩm từ thực vật, nhưng vẫn dùng bữa tối. Như vậy vẫn chưa hẳn là trì trai.

Thế nhưng, nhìn từ góc độ dùng từ của người Việt, thì nghĩa của từ đúng với thực trạng hiện nay. Ăn chay hay không ăn mạng là ăn tất cả các thực phẩm không liên quan đến mạng sống của các loài động vật. Có lẽ vậy nên ăn cả hành, hẹ, tỏi, kiệu, dù chúng là những thứ mà người trì trai không được ăn.

Phật giáo có giới không sát sanh, thế nhưng, Đức Phật cho phép dùng “tam tịnh nhục”, tức người tu sỹ không nghe thấy vì mình mà con vật bị giết (nghe tiếng con vật kêu khi bị giết), hoặc nghi con vật đó bị giết để thết đãi mình, và không thấy con vật bị giết. Nói gọn là không thấy, không nghe, không nghi, như trong luật Ngũ Phần ghi. Thời Phật giáo nguyên thủy, chư tăng sống trong rừng, sáng đi khất thực, ngày dùng một bữa. Chính nơi bữa ăn do khất thực mà có, nên thí chủ cúng gì dùng nấy, sao đòi hỏi được. Để ngăn chặn những tín đồ, vì quá mộ đạo mà sẵn sàng chuẩn bị các món ngon dâng hàng xuất gia, nên đức Phật mới đưa ra quy định “tam tịnh nhục”. Cũng trên tinh thần vô cầu, nên khi Đề-bà-đạt-đa đưa ra ý kiến, tăng đoàn nên ăn chay hoàn toàn, Đức Phật đã không chấp nhận. Vì, nếu chư tăng ăn chay, hàng cư sỹ tại gia lại phải lao công tổn tài, chuẩn bị bữa ăn riêng cúng dàng tăng. Vậy, thời ấy, Phật đã “không cấm”, sao ngày nay chúng ta lại không ăn?

Chúng ta cũng đã nói, “thời ấy” cách chúng ta hơn 2650 năm, không những thời gian quá xa cách, mà không gian cũng khác biệt, nền văn hóa lại càng chẳng giống. Tức, theo địa lý, bản thân nước Ấn Độ ngày nay cũng không toàn vẹn là một Ấn Độ cổ thời Đức Phật, chúng ta ở Việt Nam, cách Ấn Độ vài giờ ngồi máy bay. Phật giáo từ không gian văn hóa Ấn, đến nền văn hóa Việt, chắc chắn bị tiếp biến bởi nền văn hóa bản địa. Tăng đoàn từ sống trong rừng, ngủ dưới gốc cây, mang bình bát ngàn nhà nhận cơm, ngày ăn nhất ngọ không hơn. Nay sống trong tùng lâm tự viện, bữa ăn nhà bếp sẵn bày, ngày ăn vài lượt có ngay. Với cách sinh hoạt nhà chùa tự chuẩn bị bữa ăn, mà trong bếp chùa lại giết, chặt, băm chúng sanh để phục vụ bữa ăn cho chư tăng, có hợp không nhỉ? Hơn nữa, ngày nay khoa học đã chứng minh, người ăn chay đúng cách ít mắc các bệnh hiểm nghèo hơn những người thường ăn thịt. Ngoài ra, ăn chay còn góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ hành tinh xanh mà chúng ta đang sống.

Còn có nhất định phải ăn chay hay không, lại là phạm trù khác?

2. Vấn đề ăn thịt các loài động vật, trong kinh điển đại thừa nhắc đến nhiều. Kinh Đại Bát Niết Bàn có ghi: nếu như đàn na tín thí dâng cúng, thì khi ăn phải quán tưởng như đang ăn thịt con mình vậy. Nghe có vẻ hơi “dã man”, nhưng chúng ta thử xét, trong đường đời sanh tử tử sanh, bao kiếp luân hồi trôi nổi; con người, loài động vật hữu tình, có thể đã từng là thân thích ruột rà của nhau. Còn đứng trên góc độ từ bi mà nói, tất cả loài hữu tình đều có cảm nhận đau, cảm giác sợ, thậm chí khủng bố khi bị sát hại. Vậy, những ai hành hạnh bồ tát, nỡ lòng ăn thịt chúng sao? Thế nên kinh Phạm Võng dạy: tất cả thịt không được ăn, ai ăn thịt thì làm tổn thương lòng từ bi, thậm chí đoạn chủng tử của Phật tính, thế nên tất cả chúng sanh phải biết và xả bỏ. Hạt giống Phật tính mà mất, thì đường tu hành còn hy vọng gì? Hơn nữa, ăn thịt còn có khả năng đọa vào đường quỷ đói, thậm chí địa ngục, như kinh Lăng Già nói: ai mà ăn thịt, trước rơi vào cảnh ngạ quỷ, sau đọa nơi gọi là ngục.

3. Vậy, Phật dạy trước sau bất nhất sao? Kinh thì nói có thể dùng, kinh thì dạy nếu ăn sẽ bị đọa, người học phải làm sao? Thật ra không có gì mâu thuẫn trong các lời dạy của Phật. Chỉ là do nơi phàm phu chúng ta không đủ trí tuệ để hiểu hết lời Phật dạy mà thôi. Mỗi một kinh, thính chúng không đồng nhất, tức là căn cơ của đối tượng nghe khác nhau, hoàn cảnh cũng như thời điểm là những yếu tố để Đức Phật khai pháp chẳng đồng mà thôi.

Nghĩa căn bản của không ăn thịt là thực hành giới không sát sanh. Không sát sanh là cốt lõi của tất cả phạm trù đạo đức – giới luật. Là chuẩn mực căn bản thực hành hạnh lợi sanh của nhà Phật.

Do thời gian và không gian cũng như văn hóa khác nhau nên quan niệm cũng như cách ăn uống của Phật giáo đồ không đồng nhất. Đến nay, hàng xuất gia ở các nước Nam truyền Phật giáo như Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Campuchia, (hệ Nam tông, nguyên thủy Phật giáo ở Việt Nam) vẫn ăn mạng, nhưng tối không được ăn, một nghĩa của trì trai là quá ngọ không ăn. Hay các vị Lạt-ma ở Tây Tạng, Mông Cổ, (tân) tăng lữ Nhật Bản đều ít ăn chay. Vì kinh luật Phật không cấm, chỉ không được dùng ngũ tân và các thức ăn như đã nói trên. Các vị vẫn mạnh khỏe, tu hành tinh tấn, có rất nhiều cao tăng chứng đắc nơi các pháp hành.

Vậy nên, Phật giáo đồ ăn uống thế nào cho phù hợp hoàn cảnh, môi trường sống, văn hóa địa phương, nhưng phải thực hiện cho đúng tinh thần, ăn uống chỉ là phương tiện nuôi dưỡng thân, thân khỏe mạnh để có thể tinh tấn tu hành, chứ không phải vì mục đích tìm cầu cao lương mỹ vị. Tất cả chỉ là phương tiện để thực hành giáo pháp, đừng quá chấp vào đó mà quên đi ý nghĩa chính của học đạo. Nói cách khác, việc ăn chay hay mặn không liên quan trực tiếp đến sự tinh tấn hành trì, cũng như chứng đắc đạo quả. Thế nên, đừng nhìn vào việc ăn uống mà chỉ trích, đả kích, phỉ báng nhau mà mang nghiệp.

Tóm lại, ăn chay hay mặn tùy vào điệu kiện, thời điểm, hoàn cảnh sống và không gian văn hóa. Đừng dính mắc (đối cảnh vô tâm). Đừng quên mục đích tu hành là giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của nghiệp (thân, khẩu, ý).

Vĩnh Nghiêm, tháng 4 năm 2017

[1] Hưng cừ tên khoa học là Allium fistulosum, là loại gia vị có hình dáng và mùi vị tương tự củ nén không có ở Trung Quốc và Việt Nam (Từ điển Phật học Hán – Việt, NXB KHXH tr. 806).

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


The reCAPTCHA verification period has expired. Please reload the page.