Góc Nhìn

Chùa

Chùa

Chùa

Tỳ kheo Thích Nguyên Các

Chùa trong tâm thức của đa phần người dân Việt, rất gần gũi, rất thân thương, là nơi gửi gắm tâm tư, nguyện vọng là chốn thanh tịnh, mà mỗi khi đến tâm hồn nhẹ nhàng thư thái, mọi lo toan, tính toán của cuộc đời như không còn hiện hữu. Vậy nên, ngôi chùa vừa thân thiết, vừa huyền ảo lay động cõi tâm linh.
Ngôi chùa đã gắn bó với đời sống nhân dân, đồng hành cùng dòng chảy lịch sử của dân tộc Việt hàng ngàn năm nay. Có lẽ vì thế nên bất cứ nơi đâu trên dải đất hình chữ S này, chúng ta đều có thể thấy sự hiện diện của ngôi chùa. Với người dân Việt, chùa là nơi vun đắp, an ủi tâm hồn, “tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi, an ủi dân hiền mọi mái tranh” , nên khi đến bất kỳ vùng đất nào sinh sống, bên cạnh việc hình thành cộng đồng (cùng miền, cùng tỉnh thành), là việc xây dựng một ngôi chùa theo văn hóa của vùng miền ấy. Như từ những năm 50 của thế kỷ 20 người miền Bắc vào miền Nam, hay Tây Nguyên sinh sống, mang theo văn hóa miền Bắc gửi vào ngôi chùa, nên đã thành lập rất nhiều chùa với phong cách đặc trưng của người Bắc. Hay, người dân Thừa Thiên Huế, Bình Định, vào Nam lập nghiệp, cũng tạo dựng những ngôi chùa tiêu biểu đậm nét riêng của Huế, của Bình Định… Thậm chí, khi người Việt Nam ra nước ngoài định cư cũng xây dựng rất nhiều ngôi chùa Việt trên vùng đất khách quê người, để những người con dân Việt, đỡ nhớ quê hương xứ sở, nhớ ngôi chùa quê, với biết bao tình cảm mến thương, như hòa thượng Mãn Giác nói: “Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung”.
“Chùa chung”. Người dân miền Bắc từ xa xưa đã có câu “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”, không rõ từ khi nào, mỗi làng quê ở đồng bằng Bắc bộ thường có một ngôi chùa và một ngôi đình làng, hình ảnh ấy đã in sâu trong tâm thức người Việt, nó thể hiện sinh động triết lý nhân sinh và tinh thần khoan dung hoà hợp trong đời sống tín ngưỡng của dân tộc. Ngôi chùa làng là sự cân đối trở lại nét bất bình đẳng trong sinh hoạt cộng đồng làng quê xưa. Nếu ở đình làng, ngoài những ngày sóc vọng lễ tiết có “hội làng mở giữa mùa thu, giời cao gió cả giăng như ban ngày”, cả dân làng đều tụ hội, thì thông thường, chốn đình trung chỉ dành cho các quan viên bô lão bàn “việc làng, việc nước”, người phụ nữ không được can dự. Thì ngôi chùa làng lại là nơi dành cho họ, các cụ, các bà, các cô thôn nữ, và đương nhiên trẻ em được theo bà, theo mẹ, theo chị đến chùa. “Trẻ vui nhà, già vui chùa”, trẻ cũng được theo già để được “vui chùa” , nên thân thương gọi tiếng chùa chung.
Ở góc độ nào đó có thể nói, ngôi chùa chính là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn người Việt, góp phần hun đúc nên bản sắc văn hoá dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm. Cũng ý đó, thiền sư Mãn Giác kết bài thơ “Nhớ chùa” bằng hai câu: “Mái chùa che chở hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của tổ tông”.
Ấy thế mà, trong lịch sử tồn tại và phát triển, đã từng có những giai đoạn, ngôi chùa bị tàn phá bởi định kiến về tư tưởng, bị coi là nơi truyền bá mê tín… Đó là những nốt trầm của lịch sử Việt Nam nói chung, chiều dài hiện diện ngôi chùa nói riêng. Ngày nay, khi hội nhập thế giới càng tiến sâu, việc thế giới nhận thức rõ chính văn hoá mới là động lực và sức mạnh của phát triển, thì ngôi chùa lại được xem trọng, được bảo tồn, được phát triển để góp phần che chở, nâng đỡ tâm hồn Việt, vì đó là nếp sống của cha ông bao đời.
Chùa là nơi thờ Phật, chốn Tăng ni cũng như Phật tử tại gia tu tập học đạo và truyền bá chánh pháp của Như Lai. Với nghĩa ấy, chùa còn được gọi với nhiều tên khác như: Tinh xá, Tự, Tự Viện, Tòng lâm, Thiền viện, Đạo tràng, Phạm vũ, Già lam… Dù với nhiều tên gọi khác nhau nhưng chức năng vẫn không thay đổi, chỉ có thể khác nhau về hình thức, kiến trúc hay pháp môn tu tập mà thôi. Tất cả những danh xưng ấy, chỉ có chùa là một từ thuần Việt.
Những nơi hàng xuất gia ở, thực hành theo giáo lý của Đức Phật Thích Ca, thờ phụng Tam bảo tại Việt Nam, cách gọi phổ biết nhất là chùa và tự.
Trước hết từ góc độ ngôn ngữ, chúng ta tìm hiểu một chút về tự. Tự là âm Hán Việt của từ寺. Theo Hán Việt Tự Điển của cụ Thiều Chiểu, tự là danh từ, có ba nghĩa: (1) dinh quan, (2) chùa, (3) thái giám. Nếu triết tự, thì là một từ hình thanh, cách viết theo thể tiểu triện , cách đọc theo chữ thốn (寸). Mà khi dùng đến thốn là liên quan khuôn khổ, phép tắc, chế độ pháp luật…thời cổ đại, tự còn là một đơn vị thẩm hình tra án (Đại Lý Tự), ngoài ra khi kết hợp với một số từ còn có nghĩa là chức quan như khanh (卿). Cũng còn mang nghĩa là nơi hành lễ của một số tôn giáo. Như vậy, trong từ điển tiếng Hoa , tự ngoài ba nghĩa cụ Thiều Chiểu ghi ra còn có những nghĩa như trên.
Vậy từ khi nào, nghĩa của tự chuyển hẳn sang chỉ là chùa?
Đằng sau việc chuyển nghĩa của từ tự là cả một giai đoạn lịch sử Trung Quốc nói chung, sử Phật giáo thời kỳ đầu mới truyền vào Trung Quốc nói riêng. Theo Hậu Hán Thư, Hán Minh Đế – Lưu Trang (28 – 75) nằm mộng thấy “người vàng” thân cao sáu trượng, màu hoàng kim rực rỡ bay qua cung điện, sau đó sai sứ giả 18 người do Thái Âm dẫn đầu sang Tây Trúc cầu tìm đạo Phật. Đó là sự kiện năm Vĩnh Bình thứ 7 (64). Ba năm sau (67), đoàn sứ giả về với hai vị tăng người Ấn Độ là Nhiếp Ma Đằng (Kāśyapa Mātaṇga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaratna), đồng thời mang rất nhiều kinh sách, tượng Phật được thồ trên lưng ngựa trắng về đến kinh đô Lạc Dương. Lúc các tăng nhân cùng kinh, tượng về đến kinh đô, triều đình chưa chuẩn bị kịp chỗ ở riêng cho các vị, nên sắp xếp ở tạm trong Hồng Lô tự (một cơ quan trong Cửu khanh, phụ trách ngoại giao). Sau đó một năm, Vĩnh Bình thứ 11 (68), để tiện cho việc phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn, Pali sang chữ Hán do ngài Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan chủ trì, vua cho xây dựng một nơi chuyên biệt, làm nơi ở và phiên dịch kinh điển, cũng là để lưu dấu tích Phật giáo truyền vào Trung Hoa, gọi là Bạch Mã tự. Từ đó về sau, rất nhiều nơi như thế được xây dựng và đều gọi là tự – nơi ở, tu tập, hành đạo của tăng sĩ, thờ phụng, truyền bá giáo lý của Phật Đà.
Thời kỳ đầu khi Phật giáo theo đường biển từ Ấn Độ sang Việt Nam, có thể trước năm 64, thì nơi ở của Tăng sĩ được gọi là gì, đến nay không còn tài liệu để tham cứu. Khi nhà Hán sang đô hộ Việt Nam, họ cũng mang chữ viết, văn hóa… của họ sang, trong đó có Phật giáo. Từ đấy, nơi thờ Phật, hành đạo của tăng ni cũng gọi là tự. Qua bao cuộc biến thiên của lịch sử, người Việt không chịu khuất phục, nên tìm mọi cách để khỏi bị đồng hóa văn hóa, trong đó sự hình thành chữ Nôm là một điển hình. Chữ Nôm ra đời, nơi sinh hoạt của tín đồ Phật giáo – tự dần chuyển sang dùng chữ 廚hay闘, mà 廚âm Hán Việt là Trù, đọc trại thành chùa. Danh từ chùa, có lẽ được hình thành như vậy, một từ thuần Việt.
Ngày nay, danh từ chùa đang bị lạm dụng, đặc biệt là ở miền Nam. Hay nói cách khác, do tập quán, hay lý do nào đó mà rất nhiều nơi thờ tự theo tín ngưỡng dân gian, hay đền, miếu thờ các vị thần trong văn hóa một số dân tộc cũng được gọi là chùa. Thậm chí văn bản của một số cơ quan quản lý cũng ghi những nơi ấy là chùa. Chẳng hạn như cộng đồng người Hoa ở quận 5 thành phố Hồ Chí Minh, có nhiều nơi thờ những vị thần trong văn hóa dân tộc Trung hoa với bảng hiệu ghi là Miếu 廟, Cung 宮 (Miếu Quan Đế, Miếu Bà …) rõ ràng, thế nhưng người dân thường vẫn gọi là chùa. Có lẽ, ngôi chùa thờ Phật trong cộng đồng người Hoa thường bị đồng hoá với miếu thờ các vị thần linh thuộc tín ngưỡng dân gian? Điều này đưa đến một số hệ quả không hay. Thiết nghĩ, những nhà ngôn ngữ học, nhà quản lý, Giáo hội Phật giáo cần có động thái để khu biệt, tránh tình trạng phàm là nơi thờ phụng (bất kỳ) đều đánh đồng là chùa.
Sau bao vất vả nhọc nhằn chuyện hơn thua trên đường đời, một lúc nào đó, trong ta bừng dậy niềm chua xót, xao xuyến mơ về lại cảnh xưa. Cảnh xưa, chính là ngôi chùa thân thương, nơi dạy cho chúng ta cách sống an lạc. Nơi chúng ta có thể học được các phương pháp đối trị chuyện hơn thua, được mất của cuộc nhân sinh. Vậy mà trong một khoảng nào đó, chúng ta quên đi, để rồi phải vật vã, khi tỉnh ra, quay về chùa, lòng lại thấy được an ủi, được chở che, được nhẹ nhàng.
Tóm lại, chùa luôn gắn bó mật thiết với cuộc sống dân ta, vừa gần gũi lại vừa linh thiêng. Là biểu tượng của văn hoá, cội nguồn của văn hoá dân tộc Việt. Nên chúng ta phải “biết hiện đại hoá những tinh hoa của bản lĩnh văn hoá truyền thống, nâng chúng lên một tầm mới trong sự nghiệp phát triển và hội nhập của đất nước hôm nay. Nói chuyện ngôi chùa là để nói về văn hoá. Vâng, văn hoá.
Chúng ta đến với thế giới bằng gì nếu không là bằng bản lĩnh của văn hoá Việt Nam ? ”

Vĩnh Nghiêm, tháng 4 năm 2016

 

@ Bài đăng trên “Tri Thức Phật Giáo”, số 17.

Leave a Comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *


The reCAPTCHA verification period has expired. Please reload the page.